Ý kiến thăm dò
Bạn quan tâm đến chuyên mục nào trên trang?
Thiếu men glucose-6-phosphatase (bệnh lý dự trữ glycogen type I, bệnh von Gierke)
Đăng lúc: 09:44:16 13/08/2015 (GMT+7)
Thiếu hụt Glucose-6-phosphatase (G6PD; MIM #232200), còn được gọi là Bệnh von Gierke, là một bệnh dự trữ glycogen (Glycogen storage disease - GSD).
Thiếu men glucose-6-phosphatase (bệnh lý dự trữ glycogen type I, bệnh von Gierke) tải về file PDF ở đây. Author: Angela Sun, MD Section Editor: Sihoun Hahn, MD, PhD Deputy Editor: Elizabeth TePas, MD, MS Dịch bởi: NT NT & NT HN
Nguồn: nhathuocngocanh.com
GIỚI THIỆU
Thiếu hụt Glucose-6-phosphatase (G6PD; MIM #232200), còn được gọi là Bệnh von Gierke, là một bệnh dự trữ glycogen (Glycogen storage disease – GSD). Nó là bệnh dự trữ glycogen đầu tiên xác định được enzyme khiếm khuyết, vì thế nên nó được gọi là bệnh dự trữ glycogen type 1 ( GSD I). Enzyme thiếu hụt trong GSD I chủ yếu hoạt động tại gan và thận. Bệnh nhân có biểu hiện liên quan đến hạ đường huyết xung quanh 3-4 tháng tuổi. Chẩn đoán được xác định bằng các xét nghiệm gen. Điều trị chủ yếu tập trung vào việc duy trì nồng độ đường máu ở mức sinh lý.DỊCH TỄ HỌC
Tỷ lệ mắc mới của GSD I là 1/100,000 ca sinh sống. Nó là một trong những type phổ biến nhất của nhóm bệnh dự trữ glycogen.SINH BỆNH HỌC VÀ PHÂN LOẠI
Quá trình thủy phân và vận chuyển G6P cần có men 1-hydrolase xúc tác và các tiểu phân vận chuyển G6P trong bào tương, pyrophosphate, và glucose (hình 1). GSD I là do thiếu hụt hydrolase (phosphatase) hoặc translocase:- GSD Ia là do thiếu hụt enzyme G6P hydrolase (glucose-6-phosphatase [G6Pase]) và chiếm hơn 80% các trường hợp GSD I. G6Pase có mặt ở gan, ruột, thận.
- GSD Ib (thiếu hụt chất vận chuyển G6P) là do thiếu hụt enzyme G6P translocase – một enzyme có liên quan về mặt chức năng với G6Pase. Translocase là một enzyme phổ biến và hoạt động như một chất vận chuyển G6P đồng thời hoạt động như một chất đối vận phosphate. Enzyme này cũng đóng vai trò quan trọng với chức năng và cân bằng nội môi của bạch cầu trung tính.
DI TRUYỀN HỌC
GSD I là một bệnh lý di truyền gen lặn. Gen G6Pase – G6PC nằm trên nhiễm sắc thể 17q21, trong khi gen glucose6-phosphate translocase, gen số 4 trong nhóm 37 gen quy định chất vận chuyển hòa tan (SLC37A4), nằm trên nhiễm sắc thể 11q23. Hơn 100 biến thể gây bệnh đã được xác định trong gen G6PC. Hầu hết là các đột biến sai / vô nghĩa. Các lần xóa, chèn nhỏ và đột biến vị trí gia vị cũng đã được báo cáo. Một số đột biến phổ biến tồn tại ở những bệnh nhân bị GSD Ia. Các đột biến nhỏ như xóa, chèn, nối đoạn cũng đã được báo cáo. Một số đột biến phổ biến ghi nhận ở bệnh nhân GSDIa là:- 247C>T (R83C) và c.1039C>T (Q347X) là những thể đột biến phổ biến nhất được tìm thấy ở bệnh nhân da trắng.
- 379_380dupTA (p.Tyr128Thrfs) và c.247C>T (R83C) là những biến thể phổ biến nhất ở bệnh nhân dốc Tây Ban Nha.
- 648G>T (L216L), đột biến nối đoạn , and c.248G>A (R83H) là những biến thể phổ biến nhất trong cộng đồng người Hoa.
- 648G>T (L216L) chiếm 91% alen đột biến ở Nhật Bản và 75% alen đột biến ở Hàn Quốc.
- 247C>T (R83C) chiếm 98% các biến thể trong cộng đồng người Do Thái Ashkenazi.
- 1015G>T (G339C) and c.1042_1043delCT là các đột biến phổ biến nhất ở người da trắng.
- 352T>C (W118R) chiếm 50% các alen đột biến trong cộng đồng người Nhật.
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG
Trẻ thường biểu hiện bệnh lúc 3- 6 tháng tuổi với gan to, triệu chứng của hạ đường máu, tăng trưởng kém, và có khuôn mặt giống búp bê. Trong một báo cáo từ “the collaborative European study” về GSD I, bệnh nhân mắc GSD Ia và GSD Ib thường biểu hiện bệnh ở độ tuổi trung bình theo thứ tự là 6 tháng ( khoảng từ 1 ngày tuổi đến 12 tuổi ) và 4 tháng (khoảng từ 1 ngày tuổi đến 4 tuổi). Phần lớn cả hai type của bệnh đều biểu hiện trước 1 tuổi trong loạt các nghiên cứu này. Trong “the European study”, các triệu chứng thường gặp được trình bày dưới đây:- Protruding abdomen- Bụng chướng – 83%
- Rối loạn chuyển hóa, bao gồm hạ đường huyết, nhiễm toan lactic, tăng triglyceride máu và tăng acid uric máu– 71%
- Kém tăng trường (tầm vóc thấp, chân gầy) – 25%
- Nhiễm trùng tái diễn – 3% trong GSD Ia, 41% trong GSD Ib
- Giảm cơ lực – 13%
- Chậm phát triển tâm thần vận động – 7%
CHẨN ĐOÁN
GSD I cần được nghi ngờ ở những bệnh nhân có hạ được máu, toan lactic, tăng triglyceride máu, tăng acid uric máu, gan tom có hoặc không có giảm bạch cầu trung tính. Xét nghiệm DNA là cần thiết để chẩn đoán xác định GSD Ia hay Ib. Giải trình tự của G6PC (G6Pase gene) và SLC37A4 (glucose-6-phosphate translocase gene) đã được phổ biến rộng rãi. Sinh thiết gan để đánh giá mô bệnh học và phân tích enzyme đã từng được áp dụng nhưng hiện nay hiếm khi cần thực hiện. Mô bệnh học của gan nổi bật lên là sự tích trữ glycogen cùng với sự thâm nhiễm mỡ đáng kể và có thể có xơ hóa tối thiểu. A guideline for the diagnosis and management of GSD I is available from the American College of Medical Genetics and Genomics.CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
Các chẩn đoán chính cần xem xét là các dạng GSD khác gây hạ đường huyết, đó là các type GSD type 0, III, VI và IX. Bệnh nhân GSD type III có thể có men aspartate transaminase (AST) và alanine transaminase (ALT) tăng rất cao, và hạ đường huyết nhẹ hơn. Ngoài ra, nó thường có uric acid và lactic acid bình thường. Ketosis biểu hiện rõ rệt hơn nhiều trong các type GSD types 0, III, VI, and IX khi so sánh với type I. GSD type 0 không gây gan to. Cuối cùng, xét nghiệm gen là cần thiết để xác nhận các type GSD cụ thể.ĐIỀU TRỊ
Bệnh nhân GSD I nên được quản lý bởi một nhóm chuyên gia có kinh nghiệm bao gồm nhà di truyền học, chuyên gia dinh dưỡng, điều dưỡng và nhân viên xã hội. Các chuyên khoa khác có thể bao gồm thần kinh, gan mật, huyết học và nội tiết. Mục tiêu điều trị là duy trì nồng độ đường sinh lý. Các thông số lâm sàng và sinh hóa khác, bao gồm tăng trưởng, toan lactic, và tăng triglyceride, cải thiện song song với việc kiểm soát đường huyết. Guidelines điều trị GSD I khuyến cáo các đích sinh hóa như sau:- Đường huyết trước ăn > 3.5-4 mmol/L (63-72 mg/dL)
- Tỉ lệ lactate/creatinine niệu <0.06 mmol/mmol
- Nồng độ acid uric huyết thanh ở mức bình thường cao theo tuổi
- Bicarbonate máu tĩnh mạch >20 mmol/L (20 mEq/L)
- Nồng độ triglyceride huyết thanh <6.0 mmol/L (531 mg/dL)
- Nồng độ alpha-1 antitrypsin trong phân bình thường với GSD Ib
- Chỉ số khối cơ thể giữa 0.0 và + 2.0 độ lệch chuẩn
- Tiểu đạm – 67%
- Vôi hóa thận – 65%
- Loãng xương hoặc gãy xương – 27%
TÓM TẮT VÀ KHUYẾN CÁO
- Glucose-6-phosphatase deficiency (G6PD; glycogen storage disease type I [GSD I]), còn được gọi là bệnh von Gierke, là bệnh lý di truyền gen lặn NST thường do thiếu men glucose-6phosphate (G6P) hydrolase (type Ia) hoặc G6P translocase (type Ib).
Nguồn: nhathuocngocanh.com